Y học và đời sống

Chứng phế âm hư ở người cao tuổi

ng y cho rằng: “Bệnh ở phế thì ho có đờm, hoặc ho khan nhưng có suyễn nghịch, thường trong mũi có hơi nóng, hai gò má đỏ, hay thổ ra huyết, chảy máu mũi. Khi nặng hơn thì nôn ra bọt trắng, ngũ kém, đau họng, khản tiếng. Buổi sáng ho nhiều là do trong vị (dạ dày) có hỏa, buổi tối ho nhiều là do phế âm hư”.

Chứng phế âm hư ở người cao tuổi.

Nguyên nhân sinh bệnh

Chứng phế âm hư là do người cao tuổi, tân dịch bị tiêu hao nhiều, phế mất đi sự nhu dưỡng, âm dịch không đủ, sự tuyên giáng của phế bị giảm sút, hư nhiệt từ trong sinh ra. Bệnh sinh ra thường do ốm đau lâu ngày, cơ thể bị hư tổn, hoặc do lao thương quá độ mà sinh bệnh.

Triệu chứng chung

Bệnh nhân thường ho khan, ít đờm mà dính, trong đờm có lẫn máu, họng khô, khàn tiếng, cơ thể gầy còm, sốt từng cơn về buổi chiều, ngũ tâm (tim, lòng bàn tay và bàn chân) phiền nhiệt, ra mồ hôi trộm, hai gò má đỏ, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác.

Cơ chế bệnh

Chứng phế âm hư ở người cao tuổi thường thể hiện trên nhiều loại bệnh tật khác nhau, nên việc chẩn đoán và điều trị cũng không giống nhau. Bệnh sinh ra chủ yếu là do ốm đau lâu ngày, thể lực của người cao tuổi vốn sút kém.

Vì âm hư nên dẫn đến hỏa vượng, hỏa thiêu đốt tân dịch mà cơ thể gầy còm. Chứng này thường gặp về mùa thu khí táo.

Phế của con người thuộc tạng non nớt, chủ về trị tiết (bài tiết) bên ngoài thông với bì mao nên dễ bị cảm nhiễm hàn, nhiệt.

Chứng phế âm hư của người cao tuổi thường gặp trong các tình huống như: Một là do bệnh tật lâu ngày phế âm bị hư tổn, làm giảm cơ năng bảo vệ bên ngoài, dễ cảm nhiễm ngoại tà mà sinh ra các bệnh thuộc biểu chứng như sốt cao, sợ rét, đau đầu, ngạt mũi, ho khan, đau họng…

Hai là do phế âm vốn hư tổn làm liên lụy đến tỳ vị mà sinh ra chứng ăn kém, bụng trướng đầy, đại tiện phân lỏng, dẫn đến thể trạng gầy còm… Ba là do phế âm từ trẻ bị suy tổn mà sinh ra chứng âm hư hỏa vượng.

Khi lớn tuổi, hỏa làm tổn  thương phế lạc (kinh lạc trong phổi) mà sinh ra chứng ho khạc ra máu, sốt nhẹ về chiều hai gò mà đỏ (chứng này không phải ho lao).

Phương pháp điều trị

 + Do phế âm hư sinh chứng ho khan. Tân dịch trong phế bị tổn thương, phế mất đi sự nhu nhuận, nhiệt từ trong phế sinh ra nghịch lên mà thành bệnh.Triệu chứng: Ho khan, ít đờm, trong đờm có lẫn máu, họng khô, sốt từng cơn, hai gò má đỏ.

Điều trị: Tư âm dưỡng phế trừ ho. Bài thuốc: “Sa sâm mạch đông thang”. Sa sâm 12g, mạch môn 12g, ngọc trúc 8g, thiên hoa phấn 12g, bạch biển đậu 8g, tang diệp 8g, chích thảo 4g. Tùy chứng trạng của bệnh nhân có thể gia giảm cho thích hợp. Cách dùng: Ngày uống một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống sau khi ăn.

+ Do phế lao sinh chứng phế âm hư. Trực trùng lao làm tổn thương phế, tân dịch bị hư hao, âm hư phế mất chức năng thăng giáng, phế khí nghịch lên mà sinh bệnh. Triệu chứng: Ho khan kéo dài, ít đờm, trong đờm có lẫn máu, đau tức ngực, sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, hai gò má đỏ, bệnh thuộc loại truyền nhiễm.

Điều trị: Thanh phế, dưỡng âm sát trùng, chỉ ho. Bài thuốc: “Bách hợp cố kim thang”. Sinh địa 16g, mạch môn 12g, đương qui 12g, huyền sâm 12g, xuyên bối mẫu 8g, thục địa 16g, bách hợp 20g, bạch thược 12g, cát cánh 12g, chích thảo 4g. Gia bách bộ 12g, thập đại công lao diệp 12g. Tùy theo chứng trạng của bệnh nhân có thể gia thêm một số vị khác. Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn khi thuốc còn ấm.

+ Do phế âm hư sinh chứng khái huyết(ho ra máu). Phế âm hư làm sự thanh túc của phế bị hạn chế, vì âm hư sinh chứng hỏa vượng, hỏa hun đốt phế lạc mà sinh bệnh. Triệu chứng: Ho có ít đờm, trong đờm có lẫn máu đỏ tươi, đau vùng ngực khó chịu, sốt từng cơn, ra mồ hôi trộm, hai gò má đỏ, miệng khô họng ráo.

Điều trị: Tư âm nhuận phế lương huyết, chỉ khái. Bài thuốc: “Bách hợp cố kim thang” phối hợp với bài “Tứ sinh hoàn”: Hà diệp (lá sen) 20g, sinh địa 12g, trắc bá diệp 16g, ngải diệp 6g. Cách dùng: Ngày uống một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn khi thuốc còn ấm.

+ Do phế âm hư sinh chứng phế nuy (xẹp phổi). Vì phế âm bất túc, hư hỏa hun đốt làm tân dịch của phế khô kiệt mà sinh bệnh. Triệu chứng: Ho khạc ra bọt có màu đục, chất dính khạc ra khó khăn, suyễn thở, cơ thể gầy còm, lông tóc khô giòn, họng khô miệng khát.

Điều trị: Tư âm thanh nhiệt nhuận phế. Bài thuốc: “Mạch môn đông thang” hoặc bài “Thanh táo cứu phế thang”. Mạch môn 16g, cam thảo 6g, nhân sâm 12g, bán hạ (chế) 10g, ngạnh mễ (gạo để lâu năm) 20g, đại táo 12g, thanh cao 12g, tang diệp 12g, hạnh nhân 8g, hồ ma nhân (hạt đay) 6g, a giao 8g, tỳ bà diệp 1 lá. Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

TTND. BS cao cấp Nguyễn xuân Hướng