Dưới tâm (tim) có cảm giác trống rỗng, hỏa khí động ở trong mà sinh ra hồi hộp. Huyết hư cũng vậy, ẩm ứ đọng là do nước ứ đọng ở tâm bào (màng tim). Tâm là hỏa mà sợ nước, nước đã ứ đọng ở tâm bào lạc thì tâm không yên ổn, mà hồi hộp.
Ảnh minh họa.
Nguy hiểm tâm dương hư
Tâm là chúa tễ của sinh mạng con người, quản lý các tạng phủ, điều hòa mọi hoạt động của cơ thể. Đông y cho rằng: “Tâm là đại chủ của năm tạng, sáu phủ là chỗ ở của tinh thần”. Trong quá trình diễn biến của bệnh tật, chứng tâm dương hư không chỉ gây đau ngực, bứt rứt, đoản hơi, choáng váng…mà còn có xu hướng ác hóa, dương khí thoát đột ngột, xuất hiện tâm dương hư thoát, mồ hôi ra đầm đìa, tay chân lạnh, mạch vi nhược muốn tuyệt, bệnh nhân có thể tử vong.
Nguyên nhân bệnh: Chứng tâm dương hư là do dương khí trong tâm bất túc, khí huyết mất sự vận chuyển xung mãn đầy đủ, phần nhiều do tuổi cao tạng khí hư suy, hoặc do ốm lâu ngày thể lực suy yếu, hoặc ra mồ hôi quá nhiều làm hao tổn dương khí, hoặc do phú bẩm bất túc dẫn đến tâm dương không mạnh, sự vận chuyển khí huyết không đầy đủ, hoặc do suy nghĩ quá nhiều làm tổn hao tâm thần dẫn đến tâm dương bất túc, hoặc do tâm âm bất túc làm liên lụy đến tâm dương, sự hao tổn của dương khí là nguyên nhân sinh bệnh. Chứng tâm dương hư thường gặp trong các chứng: Tâm quý, hung tý, hư lao.
Triệu chứng: Bệnh nhân luôn luôn thấy tâm hồi hộp, có cảm giác vùng ngực trống rỗng khó chịu, hay sợ sệt, thở gấp, tự ra mồ hôi, tay chân lạnh, sắc mặt trắng bệch, mỏi mệt, sức yếu, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, lưỡi non mà bệu, mạch tế nhược, hoặc kết đại, hoặc trì.
Cách chữa
Chứng tâm quý (rối loạn nhịp tim): Do khí và âm của tâm đều hư liên lụy đến dương, dẫn đến tâm dương bất túc, thần không có nơi ở yên ổn, hoặc do âm tà nghịch lên làm tổn hại tâm dương mà sinh bệnh. Điều trị: ôn thông tâm dương: Quế chi 12g, cam thảo 16g, long cốt 16g, mẫu lệ 16g.
Bài thuốc có tác dụng điều trị chứng hỏa nghịch, sau khi dùng thuốc hạ, lại dùng thiêu châm làm tổn thương tâm dương mà vật vả không yên, hồi hộp sợ hãi. Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, tùy chứng trạng của bệnh nhân có thể gia giảm cho thích hợp.
Chứng hung tý (co thắt mạch vành tim): Do tâm khí bất túc dương khí trong hung cách không mạnh, làm vít lấp tắc nghẽn tâm khiếu, hoặc do đàm trọc làm nghẽn tâm dương, dương khí ở vùng ngực không thông, khí huyết vận hành bị trở ngại, mạch ở tâm tắc nghẽn mà sinh bệnh. Triệu chứng: Vùng ngực khó chịu, đau từng cơn, đoản hơi, người mệt mỏi…
Điều trị: Ôn trung tán hàn: Quát lâu 1 quả, bạch giới 120g, bán hạ 25g, rượu trắng vừa đủ. Khi tâm khí bị bế tắc, đau xiên từ vùng ngực ra sau lưng phế khí không thông có thể gia thêm một số vị thuốc khác để điều trị. Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống lúc đói khi thuốc còn ấm.
Chứng hư lao (suy tim) Do tâm dương bất túc, huyết đi không lưu lợi, tâm khí không đầy đủ mà sinh bệnh. triệu chứng: Bệnh nhân sắc mặt trắng bệch, tự ra mồ hôi, người mệt mỏi, sức yếu, lưỡi nhạt, mạch nhược.
Điều trị: Ôn dương ích khí. Bài thuốc: Tứ nghịch thang phối hợp với bài Bổ khí vận tỳ thang: Phụ tử chế 8g, cam thảo 80g, can khương 60g, hoàng kỳ 12g, nhân sâm 8g, bạch truật 12g, phục linh 12g, sinh khương 6g, trần bì 12g, sa nhân 12g, bán hạ 10g, đại táo 12g.
Bài thuốc có tác dụng điều trị chứng thiếu âm dẫn đến dương khí hư suy, âm thịnh, hàn thịnh ở trong, chân tay quyết nghịch. Cách dùng: Tùy sức khỏe bệnh nhân mà dùng liều lượng cho thích hợp. Ngày uống một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống sau khi ăn.
TTND.BS cao cấp Nguyễn Xuân Hướng
(Nguyên chủ tịch TW hội Đông y Việt Nam)