Trùn quế hay còn gọi là giun quế loài sinh vật nhỏ bé tưởng như chỉ xuất hiện trong đất vườn nay trở thành “chìa khóa vàng” của nhiều mô hình nông nghiệp hiện đại. Nhờ dễ nuôi, chi phí thấp, đầu ra đa dạng và phù hợp với xu hướng nông nghiệp hữu cơ, nghề nuôi trùn quế đang giúp nhiều nông dân thu nhập hàng trăm triệu đến tiền tỷ mỗi năm, mở ra một hướng đi bền vững cho kinh tế nông thôn.
Loài sinh vật này không chỉ giúp phân hủy nhanh phế phẩm nông nghiệp mà còn tạo ra phân trùn - thứ tưởng chừng bị bỏ đi nhưng lại là loại phân hữu cơ được đánh giá cao nhờ chứa hệ vi sinh vật phong phú, đạm tự nhiên, axit amin và các chất trung vi lượng có lợi cho đất.
Nhu cầu về phân trùn và trùn thịt vì thế tăng mạnh, kéo theo nghề nuôi trùn trở thành mô hình tiềm năng ở nhiều địa phương.
Nuôi trùn quế không đòi hỏi diện tích lớn, phù hợp với cả hộ gia đình nhỏ. Chỉ cần từ 100m2 chuồng nuôi, người nuôi đã có thể thu được khoảng 100kg trùn sinh khối mỗi tháng cùng vài tấn phân trùn.
Điểm đặc biệt của nghề này nằm ở kỹ thuật nuôi không quá phức tạp nhưng yêu cầu thiết kế chuồng trại đúng chuẩn. Khi bắt đầu nuôi trùn quế, người nông dân chọn nơi đất cao ráo, thoáng mát, có bóng râm và hệ thống thoát nước tốt để tránh ngập úng vào mùa mưa.
Nền chuồng là nơi trú ngụ và phát triển của giun nên có vai trò quan trọng nhất. Nền chuồng nuôi giun quế phải đạt tiêu chuẩn, có độ tơi xốp không chứa chất gây hại, giàu dinh dưỡng, khả năng giữ ẩm tốt, không gây phản ứng nhiệt, pH ở mức trung tính từ 6,5-7,5. Thông thường, những người nuôi trùn có kinh nghiệm sử dụng phân bò, phân gà, phân lợn… các loại phân chuồng nói chung để làm chất nền. Ngoài ra cũng có thể sử dụng cỏ, lá thân ngô, rơm rạ tươi, xơ dừa, mùn cưa, giấy vụn hoặc các hộp bìa carton cũ.
Nguồn thức ăn quyết định trực tiếp đến tốc độ sinh trưởng và chất lượng sinh khối của trùn quế. Loài này ưa các loại phế phẩm hữu cơ mềm như rau củ hư, lá cây mục, cỏ non, bã đậu, phân gia súc đã ủ hoai…
Chia sẻ kinh nghiệm từ các hộ nuôi trùn cho biết nguồn thức ăn nên xử lý bằng men vi sinh hoặc ủ trước 20-25 ngày. Khi đó, nguồn thức ăn sẽ phân hủy nhanh, giàu đạm thực vật và dễ tiêu hóa, giúp trùn phát triển mạnh, ít bệnh và sinh khối tăng đều.
Chuồng nuôi cần giữ ẩm liên tục 60-70%, thoáng khí và tránh ánh nắng trực tiếp để trùn hoạt động tốt. Với điều kiện chuồng trại đúng kỹ thuật, trùn có thể thu hoạch sau khoảng 25-30 ngày đối với trùn thịt, còn phân trùn thường được thu sau 2–4 tháng. Việc thu luân phiên theo chu kỳ giúp duy trì đàn trùn ổn định và cho năng suất cao quanh năm.
Việc thu trùn cũng khá đơn giản chỉ cần hớt lớp sinh khối bề mặt, phơi ngoài ánh sáng cho trùn tự chui xuống lớp dưới rồi gom lại. Tầng đất bên dưới sau khi tách trùn sẽ trở thành phân trùn - nguyên liệu quan trọng của ngành nông nghiệp sạch.
Trên thị trường, sản phẩm từ trùn quế rất đa dạng. Trùn tươi được bán cho các trang trại nuôi gà, vịt, cá, lươn… nhờ hàm lượng đạm cao, dễ tiêu hóa. Bên cạnh đó, nuôi giun quế còn được nuôi để lấy phân phục vụ trong trồng trọt. Chất thải của trùn quế được xếp vào loại phân hữu cơ vi sinh tự nhiên, giàu hàm lượng dinh dưỡng và hệ vi sinh vật phong phú, phù hợp với tất cả các loại cây trồng. Do đó, nhiều hộ nông dân, canh tác nông nghiệp hay tìm kiếm phân trùn quế để bổ sung dinh dưỡng cho cây trong vườn nhà.
Phân trùn quế được tiêu thụ mạnh tại các vùng trồng cây ăn trái chất lượng cao, các nhà vườn sản xuất rau hữu cơ và cả nông hộ trồng hoa, cây kiểng.
Một số cơ sở còn sản xuất phân trùn dạng viên nén hoặc phối trộn thêm khoáng chất để tạo thành sản phẩm thương mại giá trị cao. Tất cả góp phần tạo nên hệ sinh thái sản phẩm phong phú, giúp nghề nuôi trùn quế dễ mở rộng và có đầu ra ổn định.
Những năm gần đây đã đẩy mạnh mở rộng mô hình nuôi giun quế, không chỉ để phục vụ trồng trọt và chăn nuôi mà còn xem đây là hướng phát triển kinh tế mới. Hộ dân đầu tư xây dựng chuồng trại, chủ động nguồn giống và áp dụng kỹ thuật nuôi bài bản.
Giá trùn quế giống trên thị trường hiện dao động từ 15.000 - 30.000 đồng/kg, trong khi trùn quế thương phẩm có thể bán từ 80.000 - 120.000 đồng/kg. Phân trùn quế sau xử lý được nén thành dạng viên khô, tiêu thụ ổn định với mức giá khoảng 20.000 đồng/kg.
Thực tế ghi nhận mô hình nuôi giun quế mang lại hiệu quả “kép”, vừa kinh tế, vừa bảo vệ môi trường. Đây là phương thức chăn nuôi khép kín, tận dụng tối đa phụ phẩm nông nghiệp và chất thải hữu cơ để làm thức ăn cho giun, qua đó giảm đáng kể tình trạng ô nhiễm ở các vùng chăn nuôi.
Trùn quế sau khi sinh trưởng trở thành nguồn đạm tự nhiên giàu dưỡng chất cho gia súc, gia cầm, thủy sản. Mặt khác, phân trùn - thứ tưởng chừng bỏ đi lại là loại phân hữu cơ có lợi cho cây trồng, góp phần cải tạo đất bền vững. Mô hình này phù hợp xu thế nông nghiệp hữu cơ và mang lại tín hiệu khả quan cho người dân.