Đời sống - Giải trí

Loại quả xưa rụng đầy không ai ngó ngàng, giờ thành đặc sản có hương vị lạ được ưa chuộng, 200.000 đồng/kg

Loại quả này chỉ mọc ở vùng núi cao trên 1.000 m, nơi khí hậu lạnh và ẩm quanh năm. Nhờ giá trị ẩm thực và dược tính, chúng được ưa chuộng ở thành phố trong những năm gần đây.

Tò ho, còn có các tên gọi khác như đò ho, thảo quả, là một loại thảo dược thuộc họ Gừng, gắn bó lâu đời với đời sống của đồng bào vùng cao phía Bắc. Cây tò ho thường phát triển ở những vùng núi cao trên 1.000 m, nơi có khí hậu mát lạnh, ẩm và đất nhiều mùn dưới tán rừng già. Nhờ điều kiện tự nhiên đặc thù, tò ho xuất hiện nhiều nhất ở dãy Hoàng Liên Sơn, đặc biệt tại Lào Cai, nơi được coi là vùng trồng tò ho lớn nhất Việt Nam.

Thuộc họ Gừng nên cây tò ho có hình dáng tương đồng với cây gừng nhưng kích thước lớn hơn nhiều, có thể cao tới 3 m. Thân rễ mọc ngang và có nhiều đốt; vỏ thân ngoài màu hồng nhạt, bên trong trắng. Lá cây mọc so le, dài từ 50–70 cm với mặt trên xanh thẫm, mặt dưới mờ nhẹ. Vào mùa hoa, tò ho nở từng chùm hoa hồng nhạt dài khoảng 15 cm, và từ mỗi bông hoa có thể cho rất nhiều quả. Quả tò ho khi non có màu đỏ nhạt, lúc chín chuyển nâu, vỏ dày khoảng 5 mm. Mỗi quả chia thành ba ổ, mỗi ổ chứa từ 7–8 hạt với mùi thơm nồng dễ chịu.

Ở Sa Pa và nhiều tỉnh Tây Bắc, tò ho được coi là một đặc sản nổi tiếng, gắn bó với ẩm thực địa phương qua các món như chè kho, chè lam. Nhờ hương thơm đặc biệt, vài năm gần đây tò ho ngày càng được ưa chuộng trong các nhà hàng lớn và xuất hiện phổ biến trong các gian bếp gia đình.

Một điều độc đáo của tò ho là hoa và quả đều mọc từ gốc, chứ không mọc trên thân hay cành như những loại cây khác. Khi chín, quả tụ lại thành từng chùm đỏ như màu mận, tạo nên khung cảnh rất đẹp mắt dưới tán rừng. Mùa thu hoạch tò ho diễn ra vào khoảng tháng 11–12 hằng năm, được người dân vùng cao ví như “món quà mà thiên nhiên ban tặng”.

Sau khi thu hái, người dân thường phơi hoặc sấy khô ngay tại rừng, vì quả rất nặng và dễ hỏng. Theo kinh nghiệm của người địa phương, 10 kg tò ho tươi sau khi sấy chỉ còn khoảng 2 kg khô; quá trình sấy kéo dài liên tục ba ngày ba đêm. Hạt tò ho chứa lượng tinh dầu màu vàng nhạt chiếm khoảng 1–1,5% khối lượng, có mùi thơm đặc trưng, vị cay ấm.

Với hương thơm nồng ấm, hạt tò ho còn là gia vị quan trọng trong nhiều món ăn. Nổi bật nhất là món phở – nơi hạt tò ho góp phần làm nên mùi thơm sâu và đậm đặc trưng của nước dùng. Ngoài ra, nó còn được dùng khi tẩm ướp thịt nướng, kho, nấu lẩu hay rang lên để gia tăng hương vị.

Trong những năm gần đây, khi nhu cầu thị trường tăng mạnh, tò ho đã trở thành cây kinh tế chủ lực của nhiều hộ dân vùng núi. Trước đây người dân chỉ hái tò ho về sử dụng, còn phần lớn rụng xuống đất rồi mọc thành cây mới. Nhưng hiện nay, du khách và thương lái đến thu mua tận nơi, thậm chí cả thương lái Trung Quốc cũng tìm tới, giúp nhiều gia đình thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm nhờ trồng tò ho dưới tán rừng.

Hiện tò ho khô được bán với giá khoảng 180.000–200.000 đồng/kg ở các cửa hàng đặc sản và trên những sàn thương mại điện tử. Một số tiểu thương cho biết nhu cầu tiêu thụ rất cao, đặc biệt từ các nhà hàng, quán phở, khiến lượng hàng bán ra mỗi ngày có thể lên đến cả tạ.

Từ một loại quả rừng mọc tự nhiên, tò ho ngày nay đã trở thành đặc sản quý, mang lại giá trị kinh tế lớn cho đồng bào vùng cao và góp phần làm phong phú nền ẩm thực Việt Nam. 

Từ Khoá