KINH TẾ

Dệt may: Băn khoăn phận “gia công”, chưa tính chuyện 4.0

  • Tác giả : Tuyết Vân
(khoahocdoisong.vn) - Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) từng cảnh báo, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ dẫn đến khoảng 85% lao động dệt may tại Việt Nam có nguy cơ bị mất việc. Tuy nhiên, các chuyên gia lại đang khuyến cáo rằng, chỉ có đổi mới công nghệ, nhanh chóng ứng dụng 4.0 để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị... mới là con đường thoát cho dệt may Việt Nam.

Doanh số lớn, lợi không nhiều

Theo ông Lê Tiến Trường, Tổng giám đốc tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), dự báo tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 có thể làm 85% lao động ngành dệt may mất việc đến giờ là chưa xảy ra. Ngược lại, nhiều doanh nghiệp dệt may, da giày đang phải đối phó tình trạng công nhân nghỉ việc, nhảy việc, hoặc bị lôi kéo bởi các doanh nghiệp khác.

Lý do, dịch chuyển đơn hàng dệt may từ Trung Quốc và các nước đang tăng đã đưa Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này, đồng thời cũng gây tình trạng khan hiếm lao động trầm trọng trong ngành dệt may.

Bên cạnh đó, làn sóng đầu tư nước ngoài gia tăng vào các ngành sản xuất nhờ các hiệp định thương mại tự do (FTA) cùng với sự chuyển dịch do chiến tranh thương mại Mỹ-Trung càng tạo các áp lực về lao động dệt may, cả về chất lượng lao động và cạnh tranh thu hút lao động giữa các doanh nghiệp.

Sự đổ bộ mạnh mẽ của các tập đoàn lớn về sản xuất linh kiện điện tử, viễn thông, ô tô xe máy, chế biến thực phẩm... cũng thu hút lượng lớn lao động dệt may chuyển nghề. Các nhà máy mới của doanh nghiệp nước ngoài “hút” người lao động bằng tiền lương trả cao hơn, môi trường làm việc chuyên nghiệp hơn, dẫn đến tình trạng công nhân dệt may nhảy việc ngày càng nhiều.

Ý kiến các chuyên gia khuyến cáo, đã đến lúc doanh nghiệp dệt may cần đổi mới công nghệ, đầu tư thiết bị hiện đại, công nghệ tự động để tối ưu hóa sản xuất để có thể thích ứng với thực tế giảm nhân công. 

Quan trọng nhất là doanh nghiệp phải nhanh chóng thay đổi tư duy sản xuất, không thể cứ mãi làm gia công mang để tranh thủ phần giá trị rất thấp trong chuỗi sản xuất. Mặt khác, theo ông Lê Tiến Trường, hiện máy móc, tự động hóa cũng mới chỉ thực hiện được ở ngành sợi, dệt, nhuộm, nhưng ngành may vẫn phải sử dụng nhiều lao động. Những sản phẩm như veston, áo jacket, giầy da... có nhiều công đoạn không thể thực hiện bằng máy móc.

Năm 2018 được coi là một năm thành công của dệt may Việt Nam với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 36 tỷ USD, tăng 5 tỷ USD (16,36%) so với năm 2017. Tuy nhiên, nguồn lợi thu thực chất được cho là khá thấp do Việt Nam vẫn thuần gia công.

Giám đốc Công ty Daiho B&B G.A Phạm Quốc Bắc cho biết, các công ty may trong nước cũng như của nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu thuần may gia công nên hầu như toàn bộ vải vóc, nguyên phụ liệu đều được chủ hàng cung cấp đầy đủ. Việc chỉ định nhà cung cấp phụ liệu của các chủ hàng khiến những công ty cung ứng phụ kiện trong nước khó có thể tham gia vào chuỗi cung ứng. Do vậy, lợi nhuận thu được trong chuỗi giá trị cũng thấp tương ứng.

Cũng do dệt may vẫn “cảnh” gia công nên lĩnh vực sản xuất nguyên liệu cho ngành dệt may trong nước vốn non yếu lại càng không thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu, hay chen chân cung cấp cho các doanh nghiệp FDI. Với cơ cấu 90% nguồn sợi là nhập khẩu, 80% vải cũng nhập khẩu, nên tỷ lệ giá trị gia tăng của may xuất khẩu là rất thấp.

Bắt đầu, nhưng từ đâu?

Báo cáo của Tập đoàn dệt may Việt Nam (Vinatex) cho thấy, đến tháng 9/2019, hầu hết các đơn vị chưa đủ đơn hàng cho đến cuối năm. Các đơn vị lớn như May 10, Đức Giang, Hòa Thọ, Hanosimex có đơn hàng đến tháng 11, chỉ có riêng Việt Tiến là có đơn hàng đến hết năm.

Hầu hết khách hàng chưa vội đặt hàng dài hạn, do nghe ngóng tình hình thế giới, đặc biệt ép giá thấp hơn so với năm 2018, dẫn đến lợi nhuận doanh nghiệp sụt giảm. Đơn hàng từ Trung Quốc có xu hướng chuyển sang các quốc gia hiện có ưu đãi về thuế suất như Bangladesh, Campuchia. Do vậy, năm nay xuất khẩu dệt may sẽ rất khó khăn và không thể đạt mục tiêu xuất khẩu đề ra.

Để đối phó với những khó khăn, thoát được phận gia công, tạo được giá trị gia tăng cao hơn, doanh nghiệp phải chủ động về linh phụ kiện, tổ chức được khâu thiết kế, đẩy mạnh quảng bá và quan trọng là tổ chức hệ thống phân phối toàn cầu. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không làm giảm số lao động đi, mà chỉ mang đến những cơ hội công việc mới, đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và nhân lực vận hành có qua đào tạo nhiều hơn.

Mới đây, tại Hà Nội đã diễn ra hội thảo “Sản xuất hiệu quả hơn với trợ giúp kỹ thật số trong ngành dệt may” với sự chia sẻ kinh nghiệm của nhiều doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc. Tại hội thảo, ông Trương Văn Cẩm, Phó chủ tịch Vitas cho rằng, việc áp dụng tự động hóa, giảm số lượng lao động trực tiếp, liên kết dữ liệu giữa các thiết bị sản xuất, sẽ giúp ngành dệt may có thể sản xuất xanh, sạch, tiết kiệm nguồn lực tự nhiên, giảm thiểu tồn kho để tăng khả năng cạnh tranh.

Tham tán thương mại Hàn Quốc tại Việt Nam lưu ý các doanh nghiệp dệt may, trong bối cảnh công nghệ phát triển như hiện nay, chi phí nhân công rẻ thôi chưa đủ mà phải có công nghệ mới hỗ trợ để tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp.

Công nghệ số và tự động hóa đang thay đổi, tác động trực tiếp và nhanh chóng lên một số ngành sản xuất, trong đó dệt may không ngoại lệ. Nếu các doanh nghiệp không chú ý tới cuộc cách mạng 4.0 với công nghệ số và tự động hóa, nhiều khả năng doanh nghiệp sẽ sớm bị loại ra khỏi thị trường.

Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, nhà nước và các cơ quan chức năng cần hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vùng sản xuất nguyên liệu; hỗ trợ vay vốn ngân hàng; quy hoạch logistics; định hướng sản xuất các sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và áp dụng công nghệ để sản xuất các sản phẩm giá trị cao...

Đặc biệt, ngành dệt may cần tăng cường tính liên kết tập hợp nhiều doanh nghiệp. Thay vì liên kết ngang cạnh tranh lẫn nhau, lôi kéo lao động, cạnh tranh về giá để lấy khách hàng của nhau thì hãy liên kết thành chuỗi chiều dọc sản xuất nguyên phụ liệu của ngành để cung cấp cho nhà sản xuất. Có như vậy mới cùng tồn tại và phát triển.

Tuyết Vân