KINH TẾ

Trên 70% nguyên liệu phải nhập khẩu, dệt may khó hưởng lợi từ FTA

  • Tác giả : Tuyết Vân
(khoahocdoisong.vn) - Các hiệp định Thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết đều xác định ưu đãi sản phẩm dệt may dựa trên cơ sở quy tắc xuất xứ. Nếu tiếp tục nhập khẩu nguyên phụ liệu tỷ lệ lớn, dệt may Việt Nam khó có cơ hội được hưởng ưu đãi.

Hàng Việt, nhưng nguyên liệu Trung Quốc

Tại “Triển lãm quốc tế ngành công nghiệp Dệt và may/Thiết bị và nguyên phụ liệu” năm 2019, bà Nguyễn Thị Tuyết Mai - Phó Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) cho biết, nguyên phụ liệu vẫn là “nút thắt” lớn nhất của ngành này. Bà Mai đánh giá, đây là thách thức “nghiêm trọng” khi Việt Nam thực hiện các FTA như CPTPP, và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA).

Các FTA đều quy định để được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi thì phải đảm bảo quy tắc xuất xứ. Nhưng nếu các FTA mà Việt Nam đã tham gia trước kia chỉ áp dụng nguyên tắc này tại 1 - 2 công đoạn, thì hiệp định CPTPP áp dụng nguyên tắc 3 công đoạn, gồm tạo xơ, xe sợi; dệt và hoàn thiện vải; cắt may. Các công đoạn này đều phải thực hiện ở các nước thành viên CPTPP. Quy tắc xuất xứ trong EVFTA cũng khá ngặt nghèo, chỉ đứng sau CPTPP.

Theo ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Vitas - mỗi năm ngành dệt may sử dụng khoảng 820.000 tấn nguyên phụ liệu, trong đó khoảng 70% nhập từ Trung Quốc. Việt Nam trồng bông rất hạn chế. 99,99% bông và 60% xơ, sợi hiện phải nhập khẩu. Theo Tổng cục Hải quan, năm 2018 cả nước đã nhập khẩu 23,91 tỷ USD nguyên phụ liệu dệt may, da, giày, bao gồm bông, xơ sợi dệt, vải các loại, nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày, tăng 13,9% so với năm 2017. Hiện Việt Nam vẫn nhập khẩu gần 90% vải các loại  từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc... hay 80% sợi để sản xuất là nhập khẩu từ Mỹ, Tây Phi, Ấn Độ...

Tuy nhiên, tại Việt Nam, việc đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu từ sợi trở đi hiện gặp rất nhiều khó khăn, nhiều dự án bị từ chối. Năm 2018, tỉnh Vĩnh Phúc đã từ chối dự án nhà máy dệt nhuộm của tập đoàn Hong Kong TAL. Tập đoàn này tìm đến Thái Nguyên và được Chính quyền địa phương đồng ý, nhưng Bộ TNMT không chấp thuận. Thực tế, các dự án FDI dệt nhuộm đều cam kết đầu tư xử lý nước thải để không gây ô nhiễm môi trường, nhưng vẫn bị từ chối. Trong khi đó, doanh nghiệp dệt may trong nước lại không đủ nguồn vốn và kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu trong đầu tư sản xuất dệt nhuộm. Do đó, không còn cách nào khác, ngành dệt may phải phụ thuộc vào nguyên vật liệu từ Trung Quốc và các nước ngoài thành viên CPTPP. Dẫn đến dệt may Việt Nam sẽ khó có cơ hội được hưởng ưu đãi.

Không tự chủ về nguyên phụ liệu, thị trường Việt Nam bị các dự án của doanh nghiệp dệt may Trung Quốc chiếm lĩnh. Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, doanh nghiệp Trung Quốc đang muốn giành lấy cơ hội hưởng lợi khi Việt Nam tham gia các FTA. Tại TP Hồ Chí Minh, Công ty Forever Glorious thuộc tập đoàn Sheico (Đài Loan) cam kết đầu tư 50 triệu USD triển khai một dự án hoàn chỉnh từ dệt vải đến sản xuất các sản phẩm may mặc chuyên dụng cao cấp cho thể thao dưới nước. Công ty Gain Lucky Limited thuộc tập đoàn Shenzhou International (Trung Quốc) cũng dự định đầu tư 140 triệu USD phát triển dự án Trung tâm Thiết kế thời trang và sản xuất các sản phẩm may mặc cao cấp. Ở phía Bắc, tập đoàn Dệt may Yulun Giang Tô (Trung Quốc) đã được tỉnh Nam Định cấp phép đầu tư nhà máy khép kín từ sản xuất sợi, đến dệt, nhuộm, có tổng vốn đầu tư 68 triệu USD...

Nội bế tắc, ngoại hưởng lợi

Nhiều chuyên gia kinh tế nhận xét, nếu dệt may Việt Nam không kịp tăng cường năng lực canh tranh... thì Việt Nam cũng không nhận được giá trị thực cơ hội từ FTA mang lại. Lợi thế nổi bật mà dệt may Việt Nam có được từ CPTPP là mức thuế giảm sâu và nhanh, giúp tăng năng lực cạnh tranh về giá. Tuy nhiên, để được ưu đãi thuế, cần đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như nguyên tắc xuất xứ rất khắt khe.

Với năng lực, trình độ may hiện nay, các tiêu chuẩn kỹ thuật không phải là vấn đề lớn của doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, yêu cầu xuất xứ từ sợi trở đi, nghĩa là từ công đoạn kéo sợi, dệt, nhuộm vải đều phải thực hiện trong khu vực CPTPP, thì lại là thách thức không nhỏ. Vì Việt Nam hiện nay đang phải nhập khẩu hơn 70% nguyên phụ liệu ngoài khu vực CPTPP. Đã thế, ngành dệt may vẫn chưa có lối thoát cho đầu tư, khi vướng các quan ngại về nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.

Theo bà Phạm Minh Hương - Giám đốc điều hành Tập đoàn Dệt may Việt Nam - ngành dệt may có lợi thế thu hút doanh nghiệp nước ngoài là kim ngạch xuất khẩu hằng năm khá lớn, kéo theo chuỗi cung ứng từ bên ngoài vào tham gia đầu tư ngay tại Việt Nam. Trung Quốc là nước sản xuất hàng dệt may lớn nhất thế giới, nhưng do chiến tranh thương mại, chi phí lao động, chi phí sản xuất đã tăng cao. Dịch chuyển đầu tư từ Trung Quốc sang Việt Nam rất gần, chi phí thấp, lại thêm hưởng lợi từ FTA, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc sẽ muốn chiếm thị phần Việt Nam. Hiện, các doanh nghiệp FDI đang chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may trong năm 2018. Điều này cho thấy, mặc dù tỷ trọng xuất khẩu dệt may Việt Nam, cao nhưng thực chất người hưởng lợi phần lớn là các nhà đầu tư nước ngoài.

Hiệp định thương mại Việt Nam - EU (EVFTA) giữa Việt Nam và 28 nước thành viên được ký kết dự kiến sẽ mở ra nhiều cơ hội tiếp cận và mở rộng thị trường EU cho dệt may Việt Nam. Để nắm bắt cơ hội này, ông Trương Văn Cẩm - Tổng thư ký Vitas - đề xuất, các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm hiểu kỹ những nội dung liên quan đến ngành dệt may của EVFTA, đặc biệt là lộ trình giảm thuế, phòng vệ thương mại, các rào cản kỹ thuật. Đặc biệt, cần hình thành chuỗi liên kết dệt - may - phụ liệu tại mỗi vùng; chú trọng khâu chuyển giao công nghệ. Cùng với đó là tăng cường liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp FDI từ EU đầu tư với thiết bị, công nghệ tiên tiến vào khâu dệt, nhuộm; đồng thời, phải tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp dệt may trong nước...

Dệt may đạt mức tăng trưởng trên hai con số năm 2018 (đạt 30,5 tỷ USD, tăng 16,7%), với mức tăng trưởng cao tại các thị trường chủ lực như Hoa Kỳ (tăng 11,6%, Nhật Bản (tăng 22,6%), Hàn Quốc (34,9%), Trung Quốc (tăng 39,6%), EU (9,9%).

Tuyết Vân