Nhiều thay đổi sinh lý và bệnh lý ở mắt có thể xảy ra trong thai kỳ. Những thay đổi sinh lý như nám da, thay đổi khúc xạ, khô mắt... hầu hết tự ổn định sau khi sinh. Ngoài ra, quá trình mang thai có thể đi kèm với các tình trạng bệnh lý như bệnh lý hắc võng mạc, tắc mạch mắt, tăng áp lực nội sọ vô căn, bệnh Graves và khối u tuyến yên.
Tất cả đều cần đến ý kiến tư vấn của các bác sĩ chuyên khoa bởi chúng nghiêm trọng với mắt hoặc toàn thân. Một số có thể tồn tại hoặc tái phát sau khi mang thai. Vì vậy, cần đảm bảo các thai phụ này được theo dõi chặt chẽ tại chuyên khoa mắt và khi thích hợp nên phối hợp với các chuyên gia nội tiết, sản khoa.
25-33% thai phụ tiền sản giật và sản giật có biến chứng mắt
Tiền sản giật là một dạng bệnh lý co thắt mạch máu gây tăng huyết áp kèm theo rối loạn chức năng các cơ quan đích hoặc thoát protein niệu. Sản giật là biểu hiện của các cơn co giật ở bệnh nhân bị tiền sản giật.
Biến chứng mắt xảy ra trên 25% đến 33% phụ nữ bị tiền sản giật và 50% ở những người bị sản giật. Các biểu hiện ở mắt của tiền sản giật hoặc sản giật có thể là mờ mắt, ám điểm, chứng sợ ánh sáng, rối loạn sắc giác, nhìn đôi, mất thị lực hai bên thoáng qua và mù vỏ não. Hầu hết những thay đổi thị giác này có thể đảo ngược và hồi phục trong thời kỳ hậu sản.
Bệnh võng mạc thai nghén
Phát hiện ở mắt phổ biến nhất trong tiền sản giật hoặc sản giật. Loại bệnh võng mạc này thường có biểu hiện hẹp khu trú tại các tiểu động mạch võng mạc, gây phù võng mạc, xuất tiết và xuất huyết. Đôi khi gây nhồi máu trong lớp sợi thần kinh và xuất huyết dịch kính thứ phát do tân mạch hiện.
Các trường hợp nặng có thể biểu hiện phù võng mạc, bong võng mạc xuất tiết nghiêm trọng, phù gai thị và bệnh lý thần kinh thị giác do thiếu máu cục bộ cấp tính. Nói chung, mức độ nghiêm trọng của tiền sản giật quyết định mức độ bệnh lý võng mạc.
Mù vỏ não
Một biến chứng mắt khác của tiền sản giật nặng hoặc sản giật là mù vỏ não, xảy ra ở 1% đến 15% trường hợp. Mất thị lực thường xảy ra trong bối cảnh khám mắt thông thường và phản ứng đồng tử còn. Người ta đưa ra giả thuyết rằng co thắt mạch dẫn đến thiếu máu cục bộ thoáng qua, phù và nhiễm độc tế bào và mất thị lực thoáng qua.
Mặc dù hầu hết các trường hợp mù vỏ não đều được giải quyết ổn thỏa nhưng các khiếm khuyết thị trường vẫn có thể vẫn tồn tại. Biến chứng này có thể xảy ra cả trước và sau khi sinh và thường đi kèm với đau đầu, tăng phản xạ và liệt.
Ảnh đáy mắt của một mắt bị CSC cho thấy dịch dưới võng mạc vùng hoàng điểm trên lâm sàng và ảnh chụp với OCT. |
Bệnh lý hốc mắt liên quan đến tuyến giáp
Graves là nguyên nhân phổ biến nhất của cường giáp trong thời kỳ mang thai. Bệnh thường biểu hiện là lồi mắt một bên hoặc hai bên, mí mắt trợn và liệt cơ vận nhãn. Bệnh Graves thường xảy ra nhất trong quí đầu của thai kỳ, sau đó thuyên giảm trong quí thứ hai và thứ ba.
Mặc dù các trường hợp nhẹ thường được theo dõi bằng monitor nhưng các trường hợp từ trung bình đến nặng có thể cần điều trị bằng propylthiouracil. Teprotumumab bị chống chỉ định trong thời kỳ mang thai.
Khối u tuyến yên
Sự phát triển nhanh chóng của các khối u tuyến yên có sẵn trong thời kỳ mang thai rất có thể xảy ra do tác dụng sinh mạch của estrogen. Sự tăng trưởng này dẫn đến các triệu chứng choán chỗ nội sọ như bệnh lý dây thần kinh/đường thần kinh giao thoa thị giác do chèn ép.
Biểu hiện phổ biến nhất là giảm thị lực, khiếm khuyết thị trường hai bên thái dương và nhìn đôi. Ở những bệnh nhân có u tuyến yên từ trước, cần kiểm tra thị trường và khám mắt hàng tháng để theo dõi sự phát triển của u tuyến yên.
TS.BS Hoàng Cương (Bệnh viện Mắt TƯ)