Yêu dân như cha mẹ yêu con
Nguyễn Duy Thì (1571 – 1651) quê xã Yên Lãng, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đới, nay là thị trấn Thanh Lãng, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc; đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân năm 1598, thời Lê Thế Tông khi 27 tuổi.
Làm đến chức Tể tướng đầu triều, nhưng từ khi còn là một chức quan nhỏ hàng ngũ phẩm, ông đã thể hiện là một vị quan thương dân, chính trực, dám nói thẳng, nói thật.
\Vào năm 1612 khi đang là Thiêm đô ngự sử, trong nước có nhiều điềm tai dị khiến mọi người bàn tán, Nguyễn Duy Thì “dâng khải” lên chúa Trịnh Tùng, khuyên làm những điều nhân đức có lợi cho dân chúng.
Để tờ khải có trọng lượng hơn, ông vận động cả các Giám sát ngự sử của 13 đạo cùng đứng tên. Mở đầu tờ khải Nguyễn Duy Thì viết: “Dân là gốc nước, đạo trị nước là yêu quý dân mà thôi. Trời và dân theo một lẽ, lòng dân vui thích, tức là được ý trời. Vì thế người giỏi trị nước phải yêu dân như cha mẹ yêu con, thấy dân đói rét thì thương, thấy dân khổ sở thì xót”.
Ý này của tờ khải không mới, trước Nguyễn Duy Thì, nhiều người đã đề cập đến vấn đề này. Cái mới là, tờ khải đã nhắc đến tình trạng hiện thời: chính sự thì hà khắc, bạo ngược; nạn tham nhũng hoành hành khắp nơi; cấp trên thì quan liêu, cấp dưới thì mặc sức vơ vét, một tình trạng đáng báo động…
Ảnh minh họa.
Hãy nên sợ hãi
Đề cập vấn đề này, Nguyễn Duy Thì viết: “Chỉ vì kẻ thừa hành chưa biết thể theo đức ý của bề trên, chăm làm sự hà khắc bạo ngược, đua đòi xa xỉ. Coi một huyện thì làm khổ dân một huyện, coi một xã thì làm khổ dân một xã, phàm những việc nhiễu lạm, không việc gì không làm”.
Và kết cục của chính sự hà khắc bạo ngược đó là sự bần cùng hóa của người dân: “khiến cho dân trong nước, con trai thì không có áo, con gái thì không có váy, tiệc hát xướng không còn, lễ cưới xin không đủ, sống nuôi chết đưa không trông cậy vào đâu, ăn uống chi dùng hàng ngày mọi bề đều thiếu, dân mọn nghèo hèn cho đến sâu bọ cỏ cây đều không sống nổi”.
Theo quan niệm của Nho giáo, “Thiên nhân tương cảm”, trời và người có mối giao cảm với nhau, cho nên chính sự không tốt, người dân lầm than đói khổ, oán thán nhiều thì trời gieo tai họa để thức tỉnh. Nếu người cầm quyền không thức tỉnh, không thay đổi sẽ chịu hậu quả nặng nề hơn.
Trong chừng mực nào đó, quan niệm này có mặt tích cực của nó. Bởi vì các vị vua chúa quyền cao tột bậc, có thể làm bất cứ điều gì họ muốn. Nhưng hãy cẩn thận bởi ở trên cao, “ông Trời” đang nhìn xuống đấy. Và, cái ác, cái xấu sẽ phải chùn tay!
Tờ khải viết: “Vì thế cảm động đến đất trời, khiến cho lòng trời ở trên không thuận, tai họa lũ lụt tràn ngập quá mức thường, chắc là có quan hệ đến chính sự, há chẳng nên sợ hãi, tu tỉnh, nghĩ đến tội lỗi gây nên thế sao?”.
Đây là những lời trực tiếp nhắc nhở chúa Trịnh Tùng “hãy nên sợ hãi, tu tỉnh, nghĩ đến tội lỗi” của mình, há không phải là những lời quá thẳng thắn, bộc trực, quá mạnh dạn, gan góc đó sao? Nói đến như thế mà chúa không những không nổi giận mà còn lắng nghe, rồi thay đổi chính sự, như vậy không phải là một thành công lớn của tờ khải đó sao!
Sử ghi rằng, năm sau, “Mùa đông tháng 11, sai triều thần chia nhau đi các xứ, xét hỏi nỗi đau khổ của nhân gian, người phiêu dạt thì tha tạp dịch ba năm để về an cư phục nghiệp” Việc làm đó của chúa chính là hành động cụ thể để trả lời tờ khải của Nguyễn Duy Thì.
(còn nữa)
Nguyễn Bảo Nam