Dữ liệu y khoa

Hết u phổi và u não di căn sau 1,5 tháng điều trị

  • Tác giả : ThS.BS Trịnh Thế Cường
Bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn IV có đột biến ALK, có 2 ổ di căn não đã hết hoàn toàn u sau 1,5 tháng điều trị thuốc ức chế ALK thế hệ 3: Lorlatinib.

Bệnh nhân nữ (38 tuổi) tiền sử khỏe mạnh, cách đây 2 năm phát hiện ung thư phổi giai đoạn 4 (di căn màng phổi), giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô tuyến, xét nghiệm có đột biến tái sắp xếp ALK. Bệnh nhân được điều trị Ceritinib- thuốc ức chế ALK thế hệ 2. Bệnh đáp ứng hoàn toàn: U phổi tiêu biến, hết dịch màng phổi. Tác dụng phụ trên đường tiêu hóa nhiều nên bệnh nhân được giảm liều từ 3 viên xuống duy trì 2 viên/ngày.

Sau 1 năm, bệnh nhân xuất hiện đau đầu, chụp MRI sọ não, phát hiện 2 ổ di căn não, tổn thương tại phổi vẫn ổn định. Bệnh nhân được xạ phẫu (Gama knife) tổn thương não và tiếp tục duy trì Ceritinib.

ung-thu-phoi-di-can-nao-dot-bien-gen.jpg

Sau 2 năm, bệnh nhân xuất hiện đau ngực phải kèm đau đầu. Sau khi kiểm tra phát hiện bệnh tiến triển ở cả não và phổi: 2 nốt thùy trán kích thước 4x5mm và 14x15mm; nhiều nốt đặc di căn nhu mô và màng phổi phải. Bệnh nhân được chuyển điều trị thuốc ức chế ALK thế hệ thứ 3 là Lorlatinib. Đánh giá đáp ứng sau 1,5 tháng thấy bệnh đáp ứng hoàn toàn: Hết tổn thương tại não và phổi trên phim chụp CT ngực và MRI não; hết triệu chứng đau đầu và đau ngực. Tác dụng phụ đáng chú ý nhất là tăng lipid máu hỗn hợp: Cholesterol 8,69mmol/l, triglycerid 6,3mmol/l. Bệnh nhân tiếp tục duy trì Lorlatinib 100mg x1 viên/ngày và dùng thuốc hạ lipid máu: Rosuvastatin 10mg x 1 viên/ngày.

Đột biến tái sắp xếp ALK gặp khoảng 3 - 7% bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, típ mô học là ung thư biểu mô tuyến. Bệnh hay gặp ở người trẻ, ít hút hoặc không bao giờ hút thuốc. Bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn IV có đột biến ALK được điều trị thuốc ức chế ALK do hiệu quả cao hơn nhiều hóa chất. Hiện nay, có 3 thế hệ thuốc ức chế ALK: Thế hệ 1: Crizotinib; Thế hệ 2: Ceritinib, Brigatinib, Alectinib; Thế hệ 3: Lorlatinib.

ung-thu-phoi-di-can-nao-dot-bien-gen-2.jpg

Đối với bệnh nhân mới chẩn đoán, chúng ta thường điều trị ban đầu với thuốc thế hệ 2 hoặc 3. Trong các thuốc thế hệ 2, Alectinib được ưa thích hơn. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, mới chỉ duy nhất Ceritinib được cấp phép nên Ceritinib vẫn là thuốc đầu tay bác sĩ sử dụng.

Thời gian sử dụng: Tiếp tục điều trị cho đến khi bệnh tiến triển hay độc tính không thể chịu được. Tuy nhiên, khi bệnh tiến triển ở vị trí khu trú có thể điều trị bằng các biện pháp tại chỗ hoặc tiến triển nhẹ và không có triệu chứng, chúng ta vẫn có thể duy trì thuốc ban đầu. Bệnh nhân lần 1 tiến triển tại não khư trú, được điều trị xạ phẫu não và tiếp tục duy trì thuốc Ceritinib. Bệnh nhân tiến triển lần 2: Tiến triển nhiều vị trí ở não và phổi, bác sĩ khuyến cáo nên chuyển sang thuốc ức chế ALK thế hệ 3: Lorlatinib. Bệnh nhân này đáp ứng rất tốt sau 1,5 tháng điều trị Lorlatinib.

- Thuốc Lorlatinib thường dung nạp rất tốt. Khác với các loại thuốc đích khác, Lorlatinib thường hay gặp tăng lipid máu. Vì vậy lipid máu nên là 1 xét nghiệm thường quy sau mỗi lần đánh giá. Thuốc điều trị tăng lipid máu được khuyến cáo là Rosuvastatin hoặc pravastatin do ít tương tác với Lorlatinib hơn các loại statin khác.

ThS.BS Trịnh Thế Cường (Khoa Hóa trị liệu, Bệnh viện E T.Ư)

ThS.BS Trịnh Thế Cường