Lần theo phản ánh của người dân về tình trạng khai thác cát trên hồ thủy điện Buôn Tua Srah nhóm phóng viên (PV) Khoa học và Đời sống có mặt tại địa bàn xã Quảng Phú (huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông) để ghi nhận thực tế sự việc.
Bãi tập kết cát cùng nhiều tàu hút cỡ lớn neo đậu tại lòng Hồ thuỷ điện Buôn Tua Srah. |
Tại đây, bãi cát lớn được tập kết trên bờ Hồ ước chừng hàng ngàn khối (m3) cát, 1 máy xúc (cỡ lớn) hiệu Hyundai, 02 máy hút cát (loại lớn), 3 tàu hút cát (cỡ lớn) đang neo đậu tại bãi.
Dưới lòng hồ, hoạt động khai thác cát diễn ra công khai, tàu cát neo đậu tại bãi, hàng trăm mét ống hút được nối dài từ tàu cát để cắm xuống lòng hồ để khai thác. Một số ống hút cát được nối từ máy hút kéo dài đến bãi tập kết cát. Đáng nói, những tàu cát cỡ lớn tại đây đều không có số hiệu?!
Một người trong nhóm khai thác cát tại bãi tập kết |
Theo phản ánh của người dân địa phương, việc khai thác và tập kết cát này đã tồn tại từ lâu.
Chị M.T (người dân địa phương) cho biết: “Quan tâm làm gì các chú ơi, được vài hôm thì đâu lại vào đấy thôi à, cứ phóng viên, nhà báo về viết bài phản ánh thì nghỉ vài hôm là thấy họ lại kéo tàu vào làm tiếp”.
Ông N.T.H thì ngán ngẩm nói: “Khai thác từ trước giờ rồi mà có thấy bị xử lý gì đâu, hút cả ngày cả đêm mà không thấy chính quyền xuống xử lý”.
Chiếc máy xúc hiệu Hyundai cỡ lớn tại bãi tập kết cát. |
Khi thấy có sự có mặt của PV tại hiện trường khai thác cát, 1 người trong nhóm khai thác cát xuất hiện tra hỏi PV. Phóng viên hỏi về việc có được cấp phép khai thác cát hay không thì người này trả lời: “ Tôi chỉ làm thuê cho anh Nam thôi, tôi không biết gì hết đâu”.
Trước tình trạng trên PV đã phán ánh sự việc đến Ông Đỗ Thanh Hùng - Chủ tịch UBND xã Quảng Phú. Khi PV hỏi về tình trạng khai thác cát tại lòng hồ thủy điện Buôn Tua Srah chính quyền địa phương có nắm bắt được không thì ông Hùng cho biết: “Tôi chưa nắm bắt được sự việc này, tôi sẽ cho anh em xuống kiểm tra”.
Những con tàu hút cỡ lớn không số hiệu đang neo đậu tại lòng hồ thuỷ điện Buôn Tua Sarh. |
Bên cạnh đó, ông Nguyễn Chung Huy, Trưởng Phòng TN&MT huyện Krông Nô cũng cho rằng: "Đối với việc khai thác cát trên hồ thủy điện Buôn Tua Srah thì không được cấp phép, tôi sẽ kiểm tra và xử lý”.
Qua quá trình tìm hiểu thông tin, việc khai thác, tập kết cát trên hồ thủy điện Buôn Tua Srah diễn ra trong thời gian dài. Tuy nhiên, trách nhiệm chính quyền sở tại ở đâu? Dư luận quan tâm liệu có sự "khuất tất" trong sự việc trên?
Khoa học và Đời sống sẽ tiếp tục thông tin...
Xem thêm: Khai thác cát trái phép bị xử lý như thế nào?Căn cứ Nghị định 36/2020/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính hành vi khai thác cát trái phép như sau: - Căn cứ điểm a khoản 6 Điều 25 Nghị định 36/2020/NĐ-CP, phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi khai thác cát trên sông, hồ không đúng phương án thực hiện được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận gây sạt, lở lòng, bờ, bãi sông hoặc gây ngập úng nặng vùng đất ven sông. - Căn cứ khoản 8 Điều 37 Nghị định 36/2020/NĐ-CP (sửa đổi bởi khoản 15 Điều 2 Nghị định 04/2022/NĐ-CP) quy định phạt tiền đối với hành vi khai thác cát ở vùng nước nội thủy ven biển vượt ra ngoài ranh giới khu vực được phép khai thác (theo bề mặt) hoặc vượt quá độ sâu cho phép khai thác, cụ thể: + Từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với trường hợp khai thác vượt ra ngoài điểm gần nhất của ranh giới khu vực được phép khai thác (theo bề mặt) đến dưới 100 m hoặc vượt quá độ sâu cho phép đến dưới 02 m; + Từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với trường hợp khai thác cát; sỏi vượt ra ngoài điểm gần nhất của ranh giới khu vực được phép khai thác (theo bề mặt) từ 100 m đến dưới 200 m hoặc vượt quá độ sâu cho phép từ 02 m đến dưới 05 m; + Trường hợp khai thác vượt ra ngoài điểm gần nhất của ranh giới khu vực được phép khai thác (theo bề mặt) từ 200 m trở lên hoặc vượt quá độ sâu cho phép từ 05 m trở lên được coi là hành vi khai thác khoáng sản mà không có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì bị áp dụng mức phạt tiền cao nhất tương ứng quy định tại điểm e khoản 1 và điểm e khoản 2 Điều 48 Nghị định 36/2020/NĐ-CP. - Căn cứ khoản 1 Điều 48 Nghị định 36/2020/NĐ-CP (được sửa đổi bởi khoản 23 Điều 2 Nghị định 04/2022/NĐ-CP) quy định phạt tiền đối với hành vi khai thác cát trái phép, sỏi lòng sông, suối, hồ, cửa sông; cát, sỏi ở vùng nước nội thủy ven biển mà không có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cụ thể như sau: + Từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng khi tổng khối lượng khoáng sản đã khai thác tại thời điểm phát hiện vi phạm dưới 10 m3; + Từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng khi tổng khối lượng khoáng sản đã khai thác tại thời điểm phát hiện vi phạm từ 10 m3 đến dưới 20 m3; + Từ 50.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng khi tổng khối lượng khoáng sản đã khai thác tại thời điểm phát hiện vi phạm từ 20 m3 đến dưới 30 m3; + Từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng khi tổng khối lượng khoáng sản đã khai thác tại thời điểm phát hiện vi phạm từ 30 m3 đến dưới 40 m3; + Từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng khi tổng khối lượng khoáng sản đã khai thác tại thời điểm phát hiện vi phạm từ 40 m3 đến dưới 50 m3; + Từ 150.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng khi tổng khối lượng khoáng sản đã khai thác tại thời điểm phát hiện vi phạm từ 50 m3 trở lên. Như vậy, tùy thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi, chủ thể thực hiện hành vi khai thác cát trái phép nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị xử phạt với các mức phạt tiền nêu trên. Lưu ý: Mức phạt tiền đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính quy định tại Chương II và Chương III Nghị định này là mức phạt đối với cá nhân. Mức phạt đối với hộ kinh doanh; chi nhánh, văn phòng đại diện thực hiện hành vi vi phạm hành chính không thuộc phạm vi, thời hạn được doanh nghiệp ủy quyền áp dụng như đối với mức phạt của cá nhân. Mức phạt tiền đối với tổ chức (kể cả chi nhánh, văn phòng đại diện thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền của doanh nghiệp) gấp 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân, căn cứ khoản 1 Điều 5 Nghị định 36/2020/NĐ-CP (được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 2 Nghị định 04/2022/NĐ-CP). Nguồn: Thuvienphapluat.vn |