KS Tống Văn Nga – Phó Chủ tịch Tổng Hội Xây dựng Việt Nam (Hội thành viên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) cho rằng, gần 20 năm qua, Chính phủ, Bộ Xây dựng và các địa phương đã tập trung đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây không nung (VLXKN), nhưng đến nay, vật liệu này chưa được phổ cập dù đây là sản phẩm rất tốt cho môi trường và hướng tới phát triển bền vững như tiêu tốn ít năng lượng, rất phù hợp với nhà cao tầng. Để VLXKN tiếp tục phát triển, thì cần tập trung tháo gỡ các vướng mắc tại các quy định pháp lý, quy trình sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng… từ đó, đưa ra giải pháp để tháo gỡ khó khăn nhằm tiếp tục triển khai thành công loại vật liệu này.
Trước những khó khăn của VLXKN, ông Phạm Văn Bắc – Phó Chủ tịch Hội VLXDVN khẳng định: Chính sách phát triển VLXKN trong 20 năm qua là nhất quán. Hiện nay, chúng ta đang thực hiện Chương trình 2171 về phát triển VLXKN đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Theo đó, đẩy mạnh sản xuất và sử dụng VLXKN để thay thế gạch đất sét nung, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất nông nghiệp, giảm thiểu khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính và ô nhiễm môi trường; tận dụng phế thải từ các ngành công nghiệp, tiết kiệm nhiên liệu, đem lại hiệu quả kinh tế chung cho toàn xã hội.
Lộ trình sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung thay thế một phần gạch đất sét nung đạt tỷ lệ 35-40% vào năm 2025; 40-45% vào năm 2030 trong tổng số vật liệu xây, đảm bảo tỷ lệ sử dụng VLXKN trong các công trình theo quy định. Giảm phát thải khí CO2 vào năm 2025 là trên 2,5 triệu tấn/năm và năm 2030 là trên 3,0 triệu tấn/năm (so với sản xuất gạch nung với khối lượng tương đương). Từ đó, đưa ra các nhóm giải pháp nhằm thực hiện thành công chương trình này.
Tuy nhiên, qua quá trình triển khai gần 20 năm qua cho thấy, VLXKN khi đưa vào thực tế còn gặp nhiều khó khăn từ cơ chế chính sách, thiếu kinh nghiệm, nguồn vốn thấp, nhận thức của các nhà đầu tư, tư vấn thiết kế, nhà thầu, người tiêu dùng còn chưa đầy đủ, chưa hiểu biết nhiều về sản phẩm.
Ông Bắc đề nghị, cần rà soát và bổ sung các văn bản, hành lang pháp lý cho việc sử dụng VLXKN; tăng cường đôn đốc các địa phương nghiêm túc thực hiện Chỉ thị 10/CT-TTg và Chương trình 2171/QĐ-TTg và đặc biệt lưu ý đến lộ trình xóa bỏ lò công nghệ lạc hậu.